Kỷ niệm 70 năm Ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội!
Ngày kỷ niệm tràn đầy sự cảm kích. Ngày 6 tháng 10 vừa qua, trước tượng đài Lý Thái Tổ, lễ kỷ niệm 70 năm Ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội đã được tiến hành một cách long trọng và trang nghiêm. Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch UBND Tp. Hà Nội Trần Sỹ Thanh và các quan chức cấp cao đã cùng tham dự với người dân thủ đô đến cuối buổi lễ kỷ niệm. Đây là những nhà lãnh đạo đáng tự hào. Ngày hôm đó tôi được mời tham dự sự kiện với tư cách là công dân danh dự Thủ đô Hà Nội. Đây là một vị trí vinh dự đối với tôi.
Tôi có duyên với Việt Nam lần đầu tiên vào khoảng thời gian từ năm 1974. Năm nay đã đúng tròn 50 năm. Tôi đến Hà Nội lần đầu vào năm 1989. Lúc đó, là khoảng thời gian trước khi Hàn Quốc và Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao nên hầu như không có người Hàn Quốc và hoàn toàn không có nhà hàng Hàn Quốc. Đã 35 năm kể từ khi tôi đặt chân đến Việt Nam. Thời gian qua Việt Nam đã dạy cho tôi rất nhiều điều. Tôi cũng đã gặp rất nhiều người bạn tốt ở Việt Nam. Tôi gần như đã đi khắp dải đất hình chữ S từ điểm cực bắc Lũng Cú Việt Nam, nơi địa đầu của tổ quốc ngọn núi Sapa đến điểm cực nam Mũi Cà Mau.
Nếu so sánh Hà Nội của ngày hôm nay với Hà Nội cách đây 35 năm thì sự thay đổi này giống như câu thành ngữ “Thương hải tang điền”. Lần đầu tiên khi tôi đến Hà Nội, thành phố thiếu điện cũng không có nhiều xe ôtô trên đường xá. Hiện nay cũng có nhiều xe đạp và Xích lô nhưng không nổi bật. Nếu so với lần đầu tiên tôi đến thì Hà Nội hiện nay với những rừng cao ốc đang mọc nên, sự thay đổi này giống như sự biến đổi diện mạo một cách hoàn toàn như đất với trời. Hà Nội lần đầu tiên mà tôi thấy vào năm 1989 có vẻ lạ lẫm nhưng đối với tôi thì nó rất vĩ đại.
Hà Nội là thủ đô có lịch sử lâu đời nhất trên thế giới, vào năm 1010 được vua Lý Thái Tổ chọn làm Kinh đô và năm 1014 trở thành Cố đô. Năm 1009, vua Lý Công Uẩn rời Hoa Lư di chuyển từ nơi này qua nơi khác để tìm nơi lập Kinh đô rồi cuối cùng đến thành Đại La. Và trong giấc mơ, vua Lý Công Uẩn đã nhìn thấy con rồng bay lên bầu trời. Đây được coi là điềm tốt cho sự thịnh vượng của đất nước, nơi đây đã được chọn làm Kinh đô và đổi tên thành Thăng Long. Thăng Long có nghĩa là “Rồng bay lên trời”.
Năm 1243, dưới thời nhà Trần “Thăng Long” đã được đổi thành “Long Phượng”. Thời kì cuối nhà Trần, Hồ Quý Ly đã đổi tên thành “Đông Đô”.
Lịch sử đổi tên Hà Nội phù hợp với sự thay đổi của lịch sử Việt Nam. Đến thế kỷ 15 khi nhà Minh xâm lược, Lê Thái Tổ đã đánh bại quân đội nhà Minh và đổi tên từ Đông Quan thành Đông Kinh, đến năm 1527 dưới thời nhà Mạc tên của kinh thành đã được đổi lại thành “Thăng Long”.
Bức tượng Lý Thái Tổ nhìn xuống hồ Hoàn Kiếm là biểu tượng mang tính lịch sử của Hà Nội. Hậu duệ của Lý Thái Tổ lưu vong sang triều đại Goryeo ở bán đảo Hàn trong thế kỷ 12 và 13 rồi trở thành tổ tiên của hai dòng họ Lý Tinh Thiện và Lý Hoa Sơn. Điều này đang chứng minh cho lịch sử của mối quan hệ huyết thống giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
“Thăng Long – Văn Hiến Hà Nội!”. Chỉ nghe cụm từ đó thôi tôi đã thấy xao xuyến biết nhường nào. Người dân Hà Nội rất tự hào về lịch sử và truyền thống. Niềm tự hào đó chính là lòng yêu nước. Bằng lòng yêu nước đó ngày 7 tháng 5 năm 1954 tại Điện Biên Phủ quân đội và nhân dân Việt Nam đã đấu tranh và chiến thắng thực dân Pháp. Vào ngày 10 tháng 10 năm đó Hà Nội lại được ôm trong vòng tay của dân tộc. Đến nay đã là 70 năm trôi qua kể từ ngày giải phóng Hà Nội khỏi tay thực dân Pháp.
Năm 1789, cách đây 235 năm, Hoàng đế Quang Trung của triều đại Tây Sơn đã đánh tan cuộc xâm lược của nhà Thanh trong trận chiến Ngọc Hồi – Đống Đa, tạo nên một trang sử hào hùng cho dân tộc Việt Nam.
Năm 1258 khi quân Mông Cổ tiến vào thì quân và dân Việt đã đứng lên hợp sức đánh bại quân xâm lược trong trận chiến Đông Bộ Đầu và đã giữ được Hà Nội. Đó là một chiến thắng lịch sử vĩ đại cách đây 766 năm.
Như vậy, cứ mỗi khi đất nước gặp khó khăn hay những lần bị giặc ngoại xâm đánh chiếm thì người dân Hà Nội luôn luôn đứng lên và sẵn sàng chiến đấu, giành lại Hà Nội từ tay kẻ thù và bảo vệ đất nước.
Hồ Hoàn Kiếm nằm ngay trung tâm Thủ đô Hà Nội, nơi lưu giữ lịch sử đẹp đẽ và truyền thống sống động. Những bước chân nhẹ nhàng của người dân Hà Nội chào đón buổi sáng hòa nhịp với truyền thuyết về Tháp Rùa. Và Tháp Rùa nằm ở trung tâm hồ. Việc đi tản bộ và ngắm nhìn những hàng cây xung quanh hồ cùng với vị cà phê dịu nhẹ uống tại một quán cà phê thực sự là một tuyệt phẩm. Màu nước hồ Hoàn Kiếm đúng như tên gọi cũ là “Lục Thủy” nghĩa là nước xanh.
Tại Hồ Hoàn Kiếm có nhiều di tích lịch sử. Đi qua cầu Thê Húc sẽ tới đền Ngọc Sơn. Cầu Thê Húc được Nguyễn Văn Siêu xây dựng năm 1865. Thê Húc có nghĩa là “nơi đậu ánh sáng mặt trời buổi sáng sớm”.
Có hồ Hoàn Kiếm khiến Hà Nội là Hà Nội. Các di sản văn hóa xung quanh như Nhà thờ lớn, Ngân hàng Nhà nước, Nhà Hát Lớn… được bảo tồn nguyên vẹn, minh chứng rằng việc Hà Nội là Cố đô 1.000 năm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người hùng dân tộc và Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của Việt Nam. Người được chôn cất tại lăng mộ ở Quảng trường Ba Đình. Quảng trường Ba Đình cho thấy lịch sử Việt Nam hiện đại. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập. Và trong suốt 24 năm lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nhân và dân Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh giành độc lập với thực dân Pháp và giành lại độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam.
Quảng trường Ba Đình là quảng trường chính trị số 1 của Việt Nam. Phủ Chủ tịch nước là tòa nhà Quốc hội, trụ sở Đảng Cộng sản Việt Nam. Bảo tàng Hồ Chí Minh và Chùa Một Cột được kết hợp một cách hài hòa. Hơn nữa, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trang nghiêm đang bảo vệ quảng trường Ba Đình lại càng làm tăng thêm sự trang nghiêm cho nơi này. Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam được UNESCO công nhận. Suốt thời gian phong trào độc lập cũng như sau khi giành được độc lập, cả một đời không hề sống trong sự tiện nghi và không ăn uống xa xỉ. Người luôn chia sẻ những khó khăn và niềm vui với người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh không coi người dân là đối tượng “để cai trị”. Với Người, nhân dân luôn là đối tượng “cùng nhau, cùng nhau”. Triết lý của Người là tinh thần 3 cùng: “cùng làm việc, cùng ăn, cùng ngủ” với nhân dân.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, khi mới 21 tuổi, để có thể tìm người có thể hỗ trợ cho niềm khát vọng mang tính chủ nghĩa dẫn tộc của bản thân, Hồ Chí Minh đã quyết định làm phụ tá cho tàu buôn Pháp Amiral Latouche-Tréville (phiêm âm: Tàu La-tu-sơ Tơ-rê-vin), neo đậu tại cảng Sài Gòn và đã đến Pháp. Kể từ thời điểm này, trong suốt 30 năm hoạt động phong trào độc lập ở nước ngoài, Người đã trải qua tất cả mọi khó khăn. Về điểm đó, chưa ai từng trải qua nhiều công việc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã làm nhiều công việc khác nhau như làm vườn, dọn vệ sinh, thợ mỏ, phụ bếp, nhiếp ảnh gia và họa sĩ vẽ tranh cổ Trung Quốc. Để có thể duy trì kế sinh nhai Người đã làm tất cả những việc đến mức không có việc gì mà người chưa từng làm. Người đã thực sự rất vất vả. Khi còn là một người thợ nung, Người mang theo gạch nung nóng để dưới gầm giường để chiến đấu với cái lạnh và cứ như vậy ngủ. Có thể nói rằng Người đã trải qua tất cả những nỗi đau mà con người có thể chịu đựng được. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người ăn bánh mì nước mắt mà là người từng ăn bánh mì máu, là người lãnh đạo hiểu rõ hơn bất cứ ai về cảm giác và tâm trạng của người dân đói khát, biết được sự quan trọng của tự do trong cuộc sống ngục tù.
Chủ trương “không có gì quý hơn độc lập và tự do” trong cuộc sống đời thường, và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đóng vai trò tuyệt đối trong việc đạt được độc lập và thống nhất Việt Nam, một lần nữa Người lại viết nên huyển thoại bất bại của chiến tranh cho lịch sử Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm gương cho mọi việc, cùng người dân sống chết, dự đoán tương lai đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật từng lang thang khắp thế giới vận động phong trào độc lập. Do đó, Người đã gặp gỡ, giao tiếp với các nhà cách mạng trên toàn thế giới và thu hút sự ủng hộ. Người là một nhà lãnh đạo chính trị mang cảm tầm vóc quốc tế, Người có thể nói tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Thái và ba phương ngữ Trung Quốc. Người vừa là một chính trị gia vừa là một nhà văn sinh ra ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh bị bắt và bị giam trong 380 ngày từ ngày 27 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943 tại doanh trại quân đội (Tưởng Giới Thạch:1887-1975). Người đã trải qua cuộc sống trong tù tại 18 nhà tù ở 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc và tại đây người đã viết “Nhật ký trong tù” với 133 bài. < Nhật ký trong tù > là một tập thơ do người Việt Nam viết bằng tiếng Hán. < Nhật ký trong tù > cho thấy các nhà lãnh đạo dân tộc Việt Nam không nản lòng trong cái lạnh và cái đói trong tù, mà chỉ thể hiện tinh thần yêu nước chỉ nghĩ đến tổ quốc, tính nhân văn khiêm tốn và kiến thức sâu rộng vượt qua danh giới Đông Tây trong hoàn cảnh cực đoan.
Hà Nội là thành phố hòa bình. Dân tộc Việt Nam là dân tộc yêu chuộng hòa bình. Những người không biết đói thì không biết vị của cơm. Những người chưa từng bị tước đoạt tự do không thể biết được sự tự do thực sự. Những người chưa từng trải qua chiến tranh không thể biết ý nghĩa của hòa bình. Những người không biết nỗi đau bị cướp mất đất nước thì không biết tầm quan trọng của độc lập.
Việt Nam xứng đáng được độc lập và tự do. Việt Nam xứng đáng được hưởng hòa bình. Bởi vì hơn bất kỳ dân tộc nào khác người Việt Nam biết rằng không có gì quý giá hơn độc lập và tự do.
Việc giải phóng Hà Nội ngày 10/10/1954 và Việt Nam giành lại độc lập là do khả năng lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với sự đoàn kết thống nhất của nhân dân. Ngày 16 tháng 7 năm 1999, UNESCO công nhận Hà Nội là thành phố hòa bình.
Trong tương lai Hà Nội sẽ phát triển hơn nữa với tư cách là thành phố toàn cầu dẫn dắt hòa bình thế giới. Hà Nội sẽ phát triển thành một thủ đô nổi tiếng với lịch sử và truyền thống lâu đời.
Hãy cùng nhau nuôi dưỡng hòa bình thế giới bằng cách ngắm nhìn dòng nước xanh của hồ Hoàn Kiếm Hà Nội. Chừng nào nước hồ Hoàn Kiếm vẫn còn và xanh như viên ngọc Hà Nội, người Việt vẫn sẽ hát bài ca hòa bình, và người dân Hà Nội sẽ vẫn mãi yêu hồ Hoàn Kiếm. Chủ tịch Hồ Chí Minh tự hào về Việt Nam, truyền thuyết hồ Hoàn Kiếm càng khiến Hà Nội yên bình hơn.
Mọi người trên toàn thế giới! Hãy cùng học “hòa bình” ở Hà Nội!
GS. TS. Ahn Kyong Hwan